Tế Công trong lịch sử: Thích ăn thịt c:;h:;ó, uống r:;ư:;ợ::u, biết dùng công năng đặc dị

Trong truyền thuyết dân gian, Tế Công là một nhân vật mang nhiều sắc thái thần kỳ. Tương truyền ông từng đấu trí với Tần Thừa tướng, trừng trị tham quan ô lại, trên đường thấy chuyện bất bình, liền rút đao tương trợ. Tế Công cũng được mô tả như là một tăng nhân lập dị, thích ăn thịt chó, uống rượu…
Tiểu sử

Tế Công (1130 – 1207 SCN) là một vị Thiền sư thuộc phái Bạch Dương Kỳ, tông Lâm Tế, sống vào đời Tống, người Lâm Hải (Chiết Giang), họ Lý, tên Tâm Viễn, tự Hồ Ẩn, hiệu Phương Viên Tẩu sống tại vùng Chiết Giang. Ông là một tăng sĩ tu hành tại Linh Ẩn Tự, ông ham uống rượu, ăn thịt chó.

“Tế Điên Hòa Thượng” theo truyền thuyết kể lại ông nguyên là “Nhật Tinh Tử”, đảo trang giáng thế làm người nhà họ Lý, tên là Tu Duyên, pháp hiệu là Đạo Tế, sống vào năm Thiệu Hưng (tây nguyên năm 1131) đời Tống, là La Hán Hàng Long. Lúc lâm bồn, ánh hồng quang bao trùm nhà, khắp nhà có mùi thơm lạ xộc mũi. Tế Điên Hòa Thượng sinh ra có gương mặt khôi ngô tuấn tú, ngũ quan đoan chánh, tướng mạo thanh tú bất phàm, chỉ có điều là cứ khóc mãi chẳng ngưng, khóc mãi cho đến 3 hôm, Lão Phương Trượng của chùa Quốc Thanh đến chúc mừng, vừa mới nhìn thấy Hoà Thượng thì bèn lập tức ngừng khóc, nhếch mép cười rồi. Phương Trượng Tánh Không Trưởng Lão đặt cho cậu bé cái tên để ghi nhớ tên thâu làm đồ đệ, lấy tên cho cậu là Lý Tu Duyên. Tế Điên lúc 7 tuổi thì chẳng muốn nói chẳng muốn cười, chẳng có tụ họp chơi đùa với những đứa con nít cùng thôn làng. Cha của cậu mời đến một vị lão tú tài là ông Đỗ Quần Anh dạy cho cậu học hành đọc sách ngay tại nhà. Cậu có trí nhớ rất tốt, hễ nhìn qua rồi thì không quên, tốc độ đọc hiểu rất nhanh, năm 14 tuổi thì thi lấy Văn Đồng (Tú Tài), nào ngờ đâu cha bệnh qua đời.

Bản tánh của Tu Duyên yêu thích kinh điển, đến lúc 18 tuổi thì mẹ ruột cũng bị bệnh mà qua đời. Mãn kì thủ hiếu thì nhìn thấu hồng trần, lập chí xuất gia tu hành, đem những việc trong nhà giao phó lại cho Vương Viên Ngoại, đến chùa Linh Ẩn dưới núi Phi Lai Phong ở Hàng Châu xuất gia, bái Nguyên Không Trưởng Lão làm thầy, Nguyên Không Trưởng Lão (hiệu là Viễn Hạt Đường) đặt cho cậu cái pháp danh gọi là Đạo Tế, sau khi ngộ đạo thì giả điên giả khùng tại thế, đi khắp nơi hàng yêu trừ quái, trị bệnh cho các Trung Thần Hiếu Tử, trinh nữ tiết phụ, dùng diệu pháp cứu giúp đời, công đức vô lượng.

Sau khi Viễn Hạt Đường quy tiên, Tế Điên chuyển đến chùa Tịnh Từ Tự ở núi Nam Bình Sơn. Ngày 16 tháng 5 năm Khai Hy thứ 2 đời Nam Tống (năm 1206), Tế Điên ngồi đả tọa ngay ngắn viên tịch.

Sau khi Tế Công chết, an táng ở bên suối Hổ Bào Tuyền, núi Đại Từ Sơn phía tây Hàng Châu, nơi đó được xây dựng Tháp viện Tế Công có 2 tầng lầu.

Nhân dáng

Trong truyền thuyết dân gian, Tế Công là một nhân vật mang nhiều sắc thái thần kỳ. Tương truyền ông từng đấu trí với Tần Thừa tướng, trừng trị tham quan ô lại, trên đường thấy chuyện bất bình, liền rút đao tương trợ. Tế Công cũng được mô tả như là một tăng nhân lập dị, thích ăn thịt chó, uống rượu. Hành vi của ông thường được miêu tả dưới bút pháp trào phúng, cười đùa giận dữ mắng chửi, lấy hài hước làm vui. Những sự tích này đều được dân gian lưu truyền, mô tả tỉ mỉ lại trong “Tế Công truyện”.

Khi bị người khác chất vấn tại sao làm hòa thượng rồi còn vẫn ham rượu thịt, Tế Điên thủng thẳng đọc mấy câu thơ này:

“Cổ thi Phật Tổ để một phong

Dạy khuyên tu miệng lẫn tu lòng

Người nay tu miệng, lòng không sửa

Bần tăng lòng sửa, miệng thì không”

Tế Công trong lịch sử: Thích ăn thịt chó, uống rượu, biết dùng công năng đặc dị- Ảnh 2.

Tượng Tế Công ở chùa Tây Viên Tự, Tô Châu Trung Quốc rất đặc biệt, thân mặc áo rách, tay cầm quạt nát, nhưng biểu cảm trên khuôn mặt thì rất sinh động thú vị, từ 3 góc độ nhìn thì lại có diện mạo khác nhau. Một góc độ là khuôn mặt tươi cười rực rỡ, gọi là “Xuân phong mãn diện” (Mặt đầy gió xuân), một góc độ lại là gương mặt đầy ưu sầu, gọi là “Sầu mi khổ liễn” (Mặt khổ mi sầu).

Góc độ cuối là tổng hợp của hai điều trên, dường như có chút cảm giác là “nửa khóc nửa cười” hoặc là “muốn khóc không được muốn cười không xong”. Kỹ thuật điêu khắc cao siêu này, cũng rất phù hợp với thái độ của Tế Công chuyện đời ta làm kiểu ta, mặc người cười mắng.

NHỮNG GIAI THOẠI CỨU NHÂN ĐỘ THẾ CỦA TẾ CÔNG

Giải khốn cho hai cụ già nghèo

Vào triều Tống, trong thành Hàng Châu có một ngõ nhỏ vô danh, trong ngõ toàn là dân nghèo sinh sống. Trong đó có một cặp vợ chồng già, tuổi đều đã ngoài 60, lấy đan quạt, sửa quạt, bán quạt làm nghề mưu sinh. Thời trẻ tay nghề tinh thông, sức khỏe dồi dào, quạt làm ra đem lên chợ bán, sống ngày qua ngày. Tuy nhiên hiện giờ tuổi già sức yếu, sau không bằng trước, làm không đủ ăn, hai cái miệng già chịu đói, xem chừng sống không nổi nữa.

Một hôm, trời đã quá trưa mà hai cụ già vẫn không có gạo cho vào nồi, bếp lò nguội ngắt. Cụ bà ngồi bên bếp lò, mơ màng sắp ngủ, còn cụ ông tựa vào khung cửa, vừa định chợp mắt. Lúc này, một hòa thượng điên điên rồ rồ vừa đến trước cửa, ngó nhìn vào nhà, than thở một tiếng rồi lại nhìn cụ già ngồi tựa cửa, tâm đầy thông cảm. Hòa thượng giơ tay lên, thấy chiếc quạt trong tay bỗng nhiên mắt sáng lên, trong tâm đã có chủ ý. Hòa thượng dùng quạt quạt vào đầu cụ già một cái. Cụ già giật mình, dụi mắt nhìn thấy một hòa thượng điên đứng trước mặt, mới hỏi: “Sư phụ có việc gì không?”. “Ta cần sửa quạt!”, hòa thượng nói rồi giơ cây quạt trước mặt cụ già. “Được, được, mời vào nhà!”. Cụ già thấy có kế làm ăn, trong lòng cao hứng, vội vàng dẫn người vào nhà. Tế Công nhấc chân bước vào nhà, ném chiếc quạt lên bàn và nói: “Sửa mau đi, đợi một lát nữa ta tới lấy!”. Nói xong, ông ngoảnh đầu bước đi.

Cụ già cầm chiếc quạt lên xem, trong lòng ngờ vực: “Chiếc quạt này rách thế, nan không ra nan, khung không ra khung, sửa làm sao được”. Nghĩ rồi định nói với hòa thượng chiếc quạt này rách quá, thực sự không sửa được, thế nhưng hòa thượng đã đi xa rồi. Cụ già vừa sửa quạt vừa than, lẩm bẩm một mình: “Ta ở đây có một chiếc quạt mới, lát nữa ông ấy về ta đưa ông ấy là được rồi”.

Một canh giờ trôi qua, hòa thượng điên đã về, vừa đến cửa đã hỏi: “Quạt sửa xong chưa?”. “Sửa xong rồi”, lão nhân vừa cầm trong tay chiếc quạt mới vừa nói.

“Ha ha, tay nghề không tệ, sửa trông như quạt mới vậy!”, hòa thượng điên hài lòng nói. Cụ già cười gượng, trong lòng hơi buồn, nói:”Nguyên là một chiếc quạt mới mà!”.

Hòa thượng điên cầm một nén bạc đặt lên trên án, xoay mình sải bước về phía cửa, rồi lại quay đầu quạt mấy cái về phía cửa, miệng còn niệm thơ từ nghênh ngang đi. Cụ già đuổi đến tận ngoài cửa, miệng lắp bắp không thôi: “Tạ ơn sư phụ!” rồi quay đầu nhìn lại trên cửa, thấy có câu đối không biết dán từ bao giờ:

Thủ nghệ tinh tâm thiện phúc tích

Phiến tử mỹ thủ cần tài đáo

(Nghĩa là: Đặt tâm rèn luyện tay nghề sẽ tích được thiện và phúc. Cần cù chịu khó làm quạt đẹp thì tiền tài tới).

Cuộc gặp gỡ kỳ lạ của lão nhân bán quạt không lâu truyền khắp nơi nơi, mọi người đua nhau tới nhà cụ già xem câu đối, người mua quạt tới nườm nượp. Từ đó, hai cụ già sống trong sung túc. Ngõ vô danh từ đó được gọi là “ngõ quạt”.

Không lâu sau, mọi người đều tỉnh ngộ, nói: “Hòa thượng điên kia nhất định là Phật sống Tế Công, đến để giải khốn cho hai cụ già nghèo”.

Tế Công trong lịch sử: Thích ăn thịt chó, uống rượu, biết dùng công năng đặc dị- Ảnh 3.
Tế Công cướp dâu

Huyền sử kể rằng lúc Tế Công đến Linh Ẩn Tự thì nằm mộng thấy có một tai họa sắp xảy ra cho dân làng. Nguyên là ngọn núi Linh Thứu chỗ Phật Thích Ca thuyết giảng “sẽ bay từ Ấn Độ về cực lạc, và sẽ nghỉ chân ngay trước Linh Ẩn tự”. Tế Công vội báo ngay cho dân làng để tránh xa. Nhưng dân chúng lúc đó không tin lời huyền hoặc của một ông sư điên khùng.

Sắp đến giờ tai họa đến mà dân chúng vẫn nhởn nhơ, ngay lúc đó còn lo tổ chức đám cưới cho một đôi trai gái. Tế Công bèn bất chấp lễ nghi, nhảy vào lễ cưới, ôm cô dâu chạy như bay. Dân làng không thể để cho một ông sư ăn thịt chó cướp cô dâu của mình bèn đuổi theo thì bỗng rầm một cái, ngọn núi trên trời rớt xuống nằm ngay trước chùa Linh Ẩn. Khi đó dân làng mới biết Tế Công cứu mình. Ngọn núi đó là Phi Lai Phong, Tế Công giải thích cho dân làng đây là ngọn núi thiên từ Tây Trúc bay qua, nghỉ một thời gian sẽ bay tiếp, muốn đỉnh núi ở lại vĩnh viễn với xóm làng thì hãy tạc trên núi đá 500 bức tượng Phật.

Dùng công năng chuyển gỗ từ giếng lên

Một câu chuyện nổi tiếng kể rằng Tế Công đã dùng công năng để kéo gỗ từ dưới giếng. Để xây dựng lại chùa Tịnh Tử ở Hàng Châu cần huy động rất nhiều gỗ, trong khi loại gỗ tốt nhất lại ở tỉnh Tứ Xuyên cách đó 900 dặm. Không ai có cách chuyển gỗ từ xa như thế về để kịp xây chùa.

Tế Công đã nhận nhiệm vụ này bất chấp sự cười nhạo của các vị sư khác. Ông dùng công năng chuyển hết khối gỗ này đến khối khác, qua đường nước mà chuyển xuống giếng, rồi đứng tại sân nhà chùa mà gọi gỗ, từng khúc từng khúc bay lên trên. Người đời sau đã xây một đình tưởng niệm tại đây và đặt tên là “Giếng Thần Mộc”.

Tế Công có thể triển hiện thần thông, giúp đỡ những kẻ khốn cùng, viện trợ người đang hoạn nạn, nhưng lại để bản thân ăn mặc rách rưới và thiếu đói. Lý do tại sao? Theo Phật gia, mỗi người đều có duyên nghiệp phải trả, người tu luyện trong thế gian cũng không thể mắc nợ mà trốn tránh. Khi xưa Phật Thích Ca sau khi giác ngộ dưới cội bồ đề cũng từng phải chịu chửi rủa từ một người đàn bà do nghiệp nợ kiếp trước. Mục Kiền Liên, đại để tử của Thích Ca Mâu Ni, mặc dù thần thông đệ nhất, lên thiên đường, xuống địa ngục trong nháy mắt, nhưng cũng đành đứng yên cho người trần đánh đập vì nghiệp lực từ các đời tích lại là không thể không trả. Biết được nguyên lý này, Tế Công không dùng thần thông để tự giúp mình, chấp nhận bị đuổi khỏi chùa, vân du khắp dân gian, chịu đói chịu rét, hoàn trả hết tội lỗi (nghiệp) rồi mới chứng đắc được thân vàng La Hán.

Tế Công Hòa Thượng được mọi người đặt cho cái tên là Tế điên bởi lúc nào cũng điên điên; ngờ nghệch, cộng thêm quần áo rách rưới. Tuy nhiên, bằng sự tinh thông quyền pháp và tấm lòng trượng nghĩa; từ bi, một lòng hướng Phật, ông luôn giúp đỡ cho người, giác ngộ cho kiếp lầm lỡ. Vì thế, nhân gian xem ông như là một nhà Phật tới cõi trần rong chơi để giúp người, giác ngộ tâm hồn cho chúng sinh.